Đó là hai câu ca dao cổ mà ở vùng quê tôi ai cũng có thể nhớ và thuộc. Tháp chùa Dâu xưa có tên gọi là Hòa Phong. Tháp Hòa Phong hình chóp vuông được xây bằng những viên gạch thất cổ, to cao sừng sững đứng ở giữa sân chùa. Xưa tháp cao chín từng nay còn ba.
“Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy Tháp chùa Dâu thì về”.
Tháp Hòa Phong từ cổ xưa đã là một đỉnh cao của một vùng quê, là tiếng gọi thiêng liêng đối với những người con xa xứ. Và có thể nói: Tháp Hòa Phong còn là một kỳ quan mà những người ở xa lần đầu tiên được đến thăm chùa ai cũng tỏ ra hết sức ngạc nhiên vì không rõ bằng cách nào, với điều kiện thô sơ như thời xưa mà người ta có thể tạo dựng lên được một ngôi tháp to cao đồ sộ đến như vậy? Còn riêng đối với tôi thì… đó lại là một kỷ niệm về một sự khám phá mà từ trước tới nay tôi không hề nghĩ tới.
Đó là vì tôi có một người bạn gái tên là Hoàng Thị Nhuận, là thạc sĩ văn chương, quê ở xa tít mãi tận tỉnh Cao Bằng. Buổi sáng ngày hôm đó Nhuận đã không quản ngại đường xá xa xôi, vượt qua bao núi đồi để về thăm tôi. Khi vừa mới bước chân vào đến cửa nhà Nhuận đã tỏ ra rất vui mừng, háo hức kể lại lịch trình của chuyến đi rồi ngỏ ý muốn nhờ tôi đưa lên chùa Dâu để thăm quan.
“Ừ được thôi”. Tôi vui vẻ nhận lời. Và thực ra thì làng tôi ở ngay phía sau chùa Dâu nên đoạn đường đi không xa. Rồi hơn thế nữa tôi đã từng có gần chục năm ở chùa Dâu chuyên làm cái công việc trông coi bảo vệ, thuyết minh lịch sử cho du khách thập phương nên chùa Dâu trở thành nơi mà tôi đã quá quen thuộc và cũng chính vì thế mà trên suốt dọc đường đi tôi đã kể cho Nhuận nghe về lịch sử chùa Dâu một cách dễ dàng, thoáng đạt.
Vậy là… Chùa Dâu có từ khoảng đầu công nguyên; xa xưa chỉ là một cái am nhỏ, sau phát triển lên thành một ngôi chùa to đẹp như ngày nay. Chùa Dâu là nơi đầu tiên phổ cập đạo Phật vào Việt Nam, và đồng thời cũng là nơi thờ tín ngưỡng của người Việt cổ xưa. Đó là sự tích bà Man Nương, sự tích ông Mạc Đĩnh Chi cùng với rất nhiều những câu chuyện mà tôi đã từng kể ra. Và những câu chuyện đó, sự tích đó, thực ra đã không còn có gì để gọi là mới lạ đối với những người dân ở làng quê tôi, nhưng đó lại là một nguồn cảm hứng đặc biệt để Nhận phải chú ý lắng nghe và xúc động bồi hồi.
Tôi dẫn Nhuận đi theo lối cổng phụ để vào chùa. Và cũng bắt đầu từ đó là một cuộc hành trình. Tôi đi trước. Nhuận lặng lẽ theo sau. Tôi có cảm giác như là Nhuận đang rất tò mò, háo hức, tai thì chú ý lắng nghe xem tôi nói gì, còn mắt thì nhìn cứ như dán vào cảnh vật xung quanh. Thoạt tiên, tôi đưa Nhuận vào phòng khách để gặp gỡ chào hỏi sư thầy, rồi từ đó quay ra, đi sang dãy nhà tiền tế, đi ngược lên qua gian Thiên hương, Thượng điện. Rồi từ gian Thượng điện tôi và Nhuận lại đi xuống vòng theo hai dãy hành lang trở về sân tháp. Khi chúng tôi dừng lại ở sân tháp thì mặt trời đã lên cao. Nắng vàng rực rỡ. Và cũng là lúc đang có rất nhiều du khách lại qua. Nhuận ngửa mặt nhìn lên đỉnh cao của ngọn tháp rồi quay nhìn tôi.
- À! Hay là ta vào trong tháp đi anh! - Tôi khẽ gật đầu. Nhuận liền đi trước. Tôi vội vã theo sau. Trong tháp rỗng, cả ba từng đều có cửa vòm thông ra ngoài nhìn về bốn hướng nên khi tôi và Nhuận bước vào đều cảm thấy mát lạnh, êm dịu làm sao! Nhuận đứng ở giữa lòng tháp quay nhìn bốn pho tượng Tứ Trấn đứng ở bốn góc, rồi ngửa mặt nhìn lên trần nơi có một quả chuông, một cái khánh to nặng có đến hàng tạ được treo lơ lửng ở tầng hai. Rồi tiếp đó là một cuộc phỏng vấn. Nhuận liên tiếp đặt ra những câu hỏi dĩ nhiên là tôi phải liên tiếp trả lời. Tôi nói: “Xa xưa tháp chùa Dâu có tên gọi là Cổ Châu. Cổ Châu là nơi cất giữ những báu vật của Phật Pháp. Rồi khi hệ thống Tứ Pháp ra đời chùa Dâu được hoằng dương phát triển lên thành trăm gian, tháp chín từng thì tháp chùa Dâu được đổi tên là Hòa Phong Tháp. Phong là gió. Phong còn có nghĩa là phong lưu, được mùa. Mà cũng là đúng thôi vì chùa Dâu thuộc hệ thống Tứ Pháp nơi thờ Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Chớp. Mây mưa thì phải có gió, phải có mưa thuận gió hòa thì mới hỏa cốc phong đăng được”. “Ôi! Tuyệt vời quá! Nhuận đứng lặng người đi một lát rồi lại bất ngờ hỏi tôi: “Vậy theo anh thì ngôi tháp này có gì khác với các ngôi tháp ở các chùa khác không?”. “Ồ! Có chứ”. Tôi liền giải thích cho Nhuận nghe “Ở các chùa, theo tôi được biết thì… gác chuông thường được đứng ở vị trí ngay trước cổng ra vào. Còn ở chùa Dâu thì lại khác. Gác chuông được đứng ở giữa sân chùa. Đó là nơi mà chiều chiều các nhà sư hoặc chú tiểu cầm vồ đứng thỉnh chuông niệm Phật. Mỗi hồi chuông dài 108 tiếng vừa hết mỗi bài thỉnh chuông. Người ta gọi đó là chuông Thu Không. Rồi nữa, khi ngày lễ hội mồng tám tháng tư hàng năm, tượng Tứ Pháp được rước ra sân, đi qua cửa tháp để ra ngoài. Ở phía ngoài sân có đến hàng trăm người đứng vây quanh đứng xem rước phật. Đó là các cụ già, em bé, các chàng trai, cô gái người nào cũng tỏ ra háo hức vui tươi cùng vui chung ngày hội”. “Ôi, thế thì vui quá anh nhỉ?”.
Thế rồi câu chuyện tưởng như không còn gì để nói nữa và tôi thì cứ nghĩ là mình đã nói quá đầy đủ cho Nhuận nghe, nhưng bất ngờ Nhuận lại hỏi tôi: “Em xin hỏi anh một chút nữa. Anh là người bản xứ ở đây hơn nữa lại làm các công việc sưu tầm, nghiên cứu, thuyết minh, mỗi khi nhìn lên đỉnh cao của ngọn tháp anh có nghĩ gì không?. “Ồ, có chứ?”. Tôi vội thốt lên: “Đó là tình yêu quê hương, lòng tôn kính Phật Pháp”. Tiếp đó, tôi liền kể cho Nhuận nghe về những ngày tháng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đơn vị pháo cao xạ của chúng tôi phải mai phục ở giữa cánh đồng. Ban ngày thường xuyên phải tập luyện, trực chiến bắn máy bay nên ít có thì giờ để nghĩ đến tình cảm riêng tư của mình. Nhưng cho đến khi chiều tà, sương đêm bắt đầu buông, ở làng xóm xa kia là một sự yên tĩnh đến không ngờ. Ở nhà ai đó ở phía sau lũy tre làng là những làn khói bếp là là bay lên, cùng với những tiếng gọi gà, gọi con trẻ réo rắt vang lên. Chao ôi! Sao mà buồn thế. Những lúc như thế tôi lại nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con, lại nhớ tiếng chuông chùa vẫn thường vang lên trong những chiều tà… Và thực ra thì tôi cũng không còn biết nói gì thêm nữa, nhưng Nhuận vẫn tiếp tục “Tra vấn” tôi. “Theo em thì đó mới chỉ là tình cảm riêng tư của anh. Mà ý em hỏi ở đây là: Ngôi tháp này đã từng trải qua hàng bao nhiêu năm với bao nhiêu triều đại, đã từng trải qua hàng bao nhiêu cuộc chiến tranh, mưa bão, lụt lội… Vậy mà tại sao Tháp vẫn còn đứng vững được cho đến ngày nay?...”. Tôi cười: “Em quả là một nhà thạc sỹ văn chương thật. Câu hỏi của em quả là hắc búa khiến anh khó trả lời. Vậy theo em thì sao?”. Nhuận đứng lặng nhìn tôi một lát như để xem cảm xúc của tôi như thế nào, rồi nói:
- Thú thực với anh, em cũng là người đã từng được đi nhiều,được nhìn thấy nhiều những ngôi tháp ở các đình chùa và thường hay suy nghĩ về những đỉnh cao. Ở trên thế gian này có rất nhiều đỉnh cao. Núi cao, cây cao… Nhưng đó là do thiên nhiên. Còn nhà cao, tháp cao… là do con người xây dựng lên. Mà đỉnh cao thì cũng phải có một nền tảng để đứng. Vậy nền tảng đó là gì? Tại sao lại có sự cao thấp, bền vững khác nhau? Phải chăng…
- Thật tình anh cũng không hiểu em đang định nói cái gì nữa. Mà tại sao em lại đưa ra chuyện đó để làm gì?
Thấy tôi có vẻ hơi ngạc nhiên, hỏi lại, Nhuận liền giải thích:
- À, chả là vì thế này: Mới rồi em có nghe đài, đọc báo nói về tháp đôi gì đó. Ngôi tháp đó được mệnh danh là cao nhất thế giới. Vậy mà vừa qua bị khủng bố. Hôm nay đến đây, được nghe anh nói, tự nhiên em nẩy sinh ra ý nghĩ so sánh: Tại sao tháp chùa Dâu đã trải qua hàng trăm năm, tuy chỉ đơn sơ xây bằng những viên gạch cổ lại có thể đứng vững được cho đến ngày nay? Phải chăng cái nền tảng vững chắc của tháp chùa Dâu đó là tâm linh, là tình người, đó là bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Ôi! Tuyệt vời quá! Cảm ơn! Cảm ơn em! Em đã đưa ra một ý tưởng rất hay!
Tôi nói mà như reo lên vì quá vui sướng bất ngờ. Thế và, bắt đầu từ hôm đó cứ mỗi khi có dịp được nhìn tháp chùa Dâu tôi lại nghĩ đến Nhuận, nghĩ đến những đỉnh cao, đến những điều triết lý mà Nhuận đã đưa ra thật là đáng yêu. Phải chăng đối với con người cũng vậy, cũng có vô số những đỉnh cao. Có thể đó là ông nọ bà kia hoặc là những danh gia nổi tiếng, nhưng đỉnh cao nào cũng cần phải có một chỗ đứng thật vững vàng, không thể là người đi mua, đi vay mượn mà có được. Mà như thế thì nhục quá. Có phải thế không thưa các bạn?
Thanh Khương, 24-10-2014
Ý kiến ()