Tình hình lưu giữ các bộ mộc bản tại một số chùa ở Bắc Ninh
Theo chúng tôi được biết, vào thời Lê- Nguyễn, không ít ngôi chùa ở Bắc Ninh có cơ sở in ấn kinh sách Phật giáo, sách thuốc và các kinh điển Nho giáo. Căn cứ vào các dòng lạc khoản của các bộ kinh sách đã được in ra, chúng tôi cho rằng tại các ngôi chùa sau đây đã từng có hoạt động in kinh sách và có kho mộc bản: chùa Thiên Tâm (thôn Tiêu Sơn xã Tương Giang TX Từ Sơn), chùa Đại Giác (khu Bồ Sơn phường Võ Cường TP Bắc Ninh), chùa Phúc Long (xã Phù Lãng huyện Quế Võ), chùa Đại Tráng (phường Đại Phúc TP Bắc Ninh), chùa Dâu (xã Thanh Khương huyện Thuận Thành) và có thể có nhiều ngôi chùa khác nữa.
Về mặt nội dung, các loại ván khắc trong khối mộc bản tại một số chùa ở Bắc Ninh là các loại kinh sách nhà Phật, các loại sách thuốc (như bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Dương án, âm án,… các loại sách Nho, y, lý, số, khoa cúng tổ, thiền phả và thơ văn.
Về cách thể hiện, căn cứ vào các bộ sách đã được in ấn tại một số ngôi chùa cổ, chúng tôi thấy, đa số các bộ ván khắc đều có kích thước lòng là 20 x 29 cm, nhưng cũng có bộ ván khắc có kích thước 58 x 22,5 cm (như phẩm Phả môn trong bộ ván khắc chùa Phúc Long xã Phù Lãng). Ở khoảng giữa của mỗi ván khắc (dọc theo các dòng chữ) có một khoảng để khắc tên sách, số thứ tự các tờ. Tờ gần cuối có niên đại khắc ván, họ tên, chức tước, phẩm hàm quê quán người soạn, người viết chữ và người khắc ván (nếu là các loại chú, sớ, lục, truyện và thơ văn). Ở tờ cuối có khắc hình một vị mặc giáp trụ, hai tay nâng thanh bảo kiếm lên ngang ngực. Đó chính là Vi Đà tôn thiên, người có công hộ trì việc san khắc in ấn kinh sách nhà Phật.
Nhưng, cho đến nay, nhiều kho mộc bản ở một số chùa ở tỉnh Bắc Ninh trước đây đã không còn.
Tại chùa Tiêu Sơn (TX Từ Sơn), vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 đời vua Lê Dụ Tông (1715), thiền sư Như Trí (hiện còn nhục thân được đặt trong khám thờ tại chùa Thiên Tâm) trụ trì chùa là người đứng ra tổ chức việc san khắc bộ mộc bản sách Thiền uyển tập anh. Bộ mộc bản sách Thiền uyển tập anh do thiền sư Như Trí tổ chức san khắc có 62 ván khắc, mỗi ván có 22 dòng chữ, mỗi dòng có 16 chữ. Bộ mộc bản quý giá này hiện nay ở chùa Thiên Tâm không còn một mảnh nào.
Tại chùa Bồ Sơn (TP Bắc Ninh), Trong thời kỳ Hoà thượng Phúc Điền trụ trì, ngài rất chú ý đến việc san khắc kinh sách Phật giáo và một số loại sách khác. Những kinh sách mà Hoà thượng Phúc Điền tổ chức san khắc tại chùa Bồ Sơn là: Dược sư kinh, Diệu pháp liên hoa kinh, Thiền uyển kế đăng lục, Khoá hư lục, Chư tổ lục, Thánh đăng lục, Hoa nghiêm kinh, Đại giới điệp, Cựu bản Phật kế tổ đăng, Hộ pháp luân quốc âm bản, Trúc song quốc âm bản, Trúc Lâm bảo huấn quốc âm bản, Phóng sinh giới sát văn,…
Tìm hiểu thực tế, chúng tôi được biết, vào những năm Hoà thượng Phúc Điền trụ trì và tổ chức khắc mộc bản ở chùa Bồ Sơn, số mộc bản là rất lớn. Khi các toà nhà chứa mộc bản đã đầy, ngài đã mở thêm cơ sở khắc in tại chùa làng Đại Lâm (huyện Yên Phong).
Tiếp tục truyền thống khắc ván in kinh sách của thầy nghiệp sư, thiền sư An Thiền sau đó đã tổ chức san khắc bộ ván Đạo giáo nguyên lưu vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) gồm 332 ván khắc.
Hiện nay, tất cả các bộ mộc bản này đều không còn.
Tại chùa Phúc Long (xã Phù Lãng huyện Quễ Võ), căn cứ vào số ấn phẩm mà chúng tôi sưu tầm được (như Hàn Sơn tử thi tập) thì tại ngôi chùa cổ này trước đây là cơ sở san khắc mộc bản lớn trong vùng. Bộ mộc bản này được hoàn thành vào ngày tốt tháng 7 năm Khải Định nguyên niên (1916).
Khoảng 40 năm trước đây, chúng tôi có về chùa Đại Tráng để tìm hiểu về kho mộc bản được lưu giữ tại ngôi chùa này thì được biết ở đây đang lưu giữ bộ mộc bản Hải Thượng y tông tâm lĩnh. Sau đó, cán bộ Bảo tàng Hà Bắc đến thống kê và mang về cơ quan những bộ ván khắc còn lại của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh. Vì vậy, cho đến nay, chùa Đại Tráng hầu như không còn ván khắc nào.
Tại chùa Dâu, hiện còn lưu giữ được bộ mộc bản Cổ Châu Phật bản hạnh và một số mộc bản của một số kinh sách khác. Bộ mộc bản Cổ Châu Phật bản hạnh do thiền sư Tính Mộ trụ trì chùa Dâu thuê thợ khắc vào năm Cảnh Hưng thứ 13 (1753). Bộ mộc bản có 21 tấm, mỗi tấm có kích thước lòng là 22 x 15 cm, mỗi ván khắc có 12 dòng chữ, mỗi dòng có câu lục và câu bát. Có lẽ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đây là bộ ván khắc cổ nhất còn được lưu giữ trong cơ sở thờ tự Phật giáo.
Giá trị tư liệu của các bộ mộc bản
Tìm hiểu một số bộ mộc bản trong một số ngôi chùa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi thấy chúng có một số giá trị về mặt tư liệu dưới đây:
Giá trị lịch sử
Căn cứ vào các chi tiết trong dòng lạc khoản, chúng ta biết được kỹ thuật chạm khắc gỗ của thời kỳ đó ra sao và tình hình kinh tế xã hội thời ấy như thế nào. Vì chỉ có xã hội thanh bình, người dân no đủ, đời sống tín ngưỡng được tôn trọng thì nhà chùa mới có điều kiện khắc ván in kinh sách.
Căn cứ vào các chi tiết trong dòng lạc khoản, chúng ta biết được mộc bản đó được khắc vào thời điểm nào. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy hầu hết ở gần trang cuối của các bộ mộc bản, người xưa đều ghi rõ ngày tháng, niên hiệu và nơi san khắc. Điều đó giúp cho người nghiên cứu có cơ sở đối chiếu với các sự kiện lịch sử có liên quan xảy ra tại địa phương ở thời điểm đó để có những kiến giải khoa học có sức thuyết phục.
Căn cứ vào các chi tiết trong dòng lạc khoản, chúng ta biết được chủ nhân của người tạo ra văn bản là ai. Ngày xưa, người Việt Nam và người Trung Hoa rất trọng danh vị. Nếu tại dòng lạc khoản của mỗi câu đối, bài thơ, bài trướng, … người ta ghi rất đầy đủ học vị, chức tước, quê quán, thì đối với các bộ mộc bản cũng như vậy. Đây là những chi tiết ngắn gọn so với nội dung văn bản, nhưng rất quan trọng đối với người nghiên cứu.
Giá trị văn hoá
Căn cứ vào nét chữ, thể chữ, cách viết đài, phép kỵ huý,… trong văn bản mộc bản, chúng ta có thể biết được bộ mộc bản đó xuất hiện ở thời điểm nào, nếu bộ mộc mộc bản đó không may mất những ván khắc cuối, hoặc ván khắc gần cuối không có dòng lạc khoản.
Các bộ mộc bản không chỉ khắc kinh sách Phật giáo mà còn khắc cả sách thuốc, sách địa lý, sách bói, kinh điển Nho gia, thơ văn,… nhờ đó, chúng ta biết được đời sống văn hoá của người dân thời kỳ đó như thế nào; loại sách nào được thời đại thường sử dụng, nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân nói chung, tín đồ Phật tử nói riêng ra sao,…
Căn cứ vào các chủng loại và khối lượng mộc bản mà cơ sở thờ tự Phật giáo lưu giữ, chúng ta biết được vai trò xã hội của nhà chùa thời điểm đó đối với người dân như thế nào.
Giá trị nhân văn
Căn cứ vào các chi tiết trong dòng lạc khoản, chúng ta thấy được tính minh bạch của người xưa được thể hiện trong công việc. Một số bộ mộc bản, chúng tôi đọc được họ tên, quê quán, số tiền, số ván khắc công đức vào việc khắc ván in kinh của không ít người. Mặt khác, cách ghi rõ ràng, chi tiết họ tên, học vị, chức tước, quê quán của người viết chữ, của thợ khắc chữ vào tấm ván gần cuối của bộ mộc bản cũng thể hiện tính minh bạch rất đáng trân trọng của người xưa.
Từ những chi tiết trên, chúng ta biết được việc san khắc mộc bản không những chỉ là công việc của nhà sư trụ trì chùa mà còn là sự quan tâm của cả cộng đồng làng xã. Qua đó, chúng ta thấy được mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà sư với dân làng, với những người quan tâm đến dời sống văn hoá tinh thần của làng xã.
Thông qua việc khắc ván in kinh sách các loại, chúng ta thấy được rằng, nhà sư trước đây không chỉ tụng kinh gõ mõ mà họ quan tâm đến nhiều lĩnh vực trong đời sống tinh thần của giới tăng sĩ và của tín đồ Phật tử.
Tại ván khắc cuối cùng có khắc hình Vi Đà tôn thiên, mà theo truyền thuyết, đó là người hộ trì cho việc in ấn kinh sách Phật giáo, điều đó chứng tỏ người chủ trì việc khắc bộ mộc bản đó tỏ sự trân trọng đối với người có công hộ trì việc in ấn kinh sách Phật giáo.
Trước tình hình nhiều bộ mộc bản ở một số cơ sở thờ tự Phật giáo ở tỉnh ta đã không còn, chúng tôi có mấy kiến nghị về việc bảo quản mộc bản như sau:
Một là, không thể để ngoài trời mà phải được bảo quản nơi kín đáo, thoáng khí, cao ráo, tránh nơi ẩm thấp, tránh bị thấm nước; mộc bản cồng kềnh hơn kinh sách được in trên giấy nên cần có không gian bảo quản đủ rộng.
Hai là, vì các con chữ được khắc trên gỗ mềm, nét mảnh, trải qua hàng trăm năm, rất dễ bị sứt, mẻ, mất nét, nên sử dụng mộc bản phải rất nhẹ nhàng, thận trọng.
Ba là, các cơ quan chuyên môn ở tỉnh cần có phương án bảo quản, sưu tầm, khai thác tất cả các loại mộc bản có trong các tư gia, các cơ sở thờ tự tôn giáo tín ngưỡng ở trong và ngoài nước. Vì đây là tư liệu độc bản, có giá trị văn hoá, giá trị lịch sử, giá trị nhân văn rất quý, nếu để mất đi, chúng ta sẽ mất đi nhiều tư liệu quan trọng.
Nguyễn Quang Khải
Ý kiến ()