Ông Nguyễn Huy Bách sinh năm Bính Tuất (1946) ở thôn Vạn Ty, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1965, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông lên đường nhập ngũ, Nam chiến đấu chống Mỹ. Sau tám năm rời quân ngũ, với thương binh hạng 3/4, ông lên khu gang thép Thái Nguyên làm công nhân.
Được hai năm vì sức khỏe yếu, ông trở về quê hương cùng vợ con xây dựng tổ ấm gia đình. Với vốn sống phong phú lại có thêm năng khiếu, ông bắt đầu cầm bút viết văn, làm thơ. Ông làm có đến mấy trăm bài thơ nhưng chỉ chọn hơn 100 bài in trong tập HOA NẤM – Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam, năm 2018. Đây là tập thơ đầu tay của ông.
HOA NẤM trước hết là tâm sự của một cựu chiến binh từng mang hết tuổi thanh xuân cống hiến cho Tổ quốc. Kí ức về chiến tranh, về người lính hiện lên rất rõ trong tập thơ. Nó ùa về trong những đêm nóng nực, nghe tiếng quạt vo vo, không ngủ được, nó trào lên khi nhớ về người bạn cũ lúc đi qua cánh rừng Tây Nguyên bạt ngàn nắng gió. Ta thấy rất rõ nỗi gian khổ hy sinh của người lính. Đó là cảnh “Vượt núi bằng đèo, Rau rừng cánh vóng gió reo đại ngàn”, cảnh “B52 rải mịt mù Trường Sơn”, cảnh “Mặt đất rung đạn réo bom gầm”, nhưng người chiến sĩ trước họng súng quân thù vẫn “ào ào xông lên” tiêu diệt kẻ thù xâm lược vì họ xác định được lý tưởng “Tuổi xuân đâu có ngại ngần – Hiến dâng xương máu tô phần vinh quang”. Đọng lại nhất trong những bài thơ viết về chiến tranh là bài thơ “Hát trước giờ ra trận”. Bài thơ nói về Đôn, người bạn thời hoa niên cùng thôn, cùng đi bộ đội nhập ngũ một ngày, cùng là chiến sĩ trong một đơn vị. Tác giả chứng kiến cảnh Đôn hát chèo cho cả đơn vị nghe trước lúc ra trận. Rồi Đôn hi sinh. Mấy chục năm rồi nhớ lại, câu thơ vẫn bồi hồi xúc động và da diết nhớ thương.
Không một chút phân vân
Đôn ngã xuống, xe tăng thù bốc cháy
Cây rừng nát tan trút lá
Đồng đội khóc mày – Gạt nước mắt, Đôn ơi!
Viếng nghĩa trang liệt sĩ, trong làn khói hương nghi ngút nhà thơ vẫn như nghe thấy đâu đây tiếng bước chân của người lính dội về.
Anh về đất mẹ quê cha
Hóa thân vào đất, nở hoa bốn mùa
(Trước tượng đài liệt sĩ )
Trở về với cuộc sống đời thường, những người chiến sĩ ấy vẫn rất tình nghĩa. Họ đến thăm nhau, động viên, giúp nhau trong cuộc sống. Mỗi khi gặp nhau, tuổi đã cao “bạc màu tóc xương” vẫn “Râm ran kể chuyện chiến trường” cho nhau nghe. Nhưng điều này mới thật đáng quý ở họ ấy là tinh thần học hỏi vươn lên trong cuộc sống. Không chịu nghèo đói, những cựu chiến binh đã đi “tầm sư học nghiệp” để về làm nấm. Và thật bất ngờ, họ đã thành công “Chiều buông nắng tắt ngày sang – Trăm nghìn bịch nấm ngỡ ngàng nở hoa - Hương thơm sực nức quanh nhà - Vấn vương cùng gió thơm ra ngoài đồng” (Hoa nấm).
Hoa nấm còn là tập thơ ghi lại đậm cảm xúc của nhà thơ khi viết về quê hương. Đó là cảnh vườn cây đầy hoa trái “Bí bầu cùng quấn quýt, Đu đủ như đèn lồng”. Cảnh dưới ao “Nước dưới ao sóng sánh – Cá bơi lội từng đàn”. Đặc biệt là cánh đồng lúa “Đồng xanh sóng lúa rì rào – Cánh cò chấp chới bay vào trang thơ”. Cảnh ấy báo hiệu một mùa vàng bội thu. Đêm đến cả đất trời nơi làng quê bừng lên ánh điện “Đêm về điện sáng sao sa – Ngỡ ai mang cả Ngân hà xuống quê”. Không có một tâm hồn nặng lòng với quê hương không thể có những câu thơ hay như thế.
Nhưng trọng tâm của bức tranh quê vẫn là những con người. Đó là người mẹ hết lòng vì con. Thời trẻ, mẹ đã từng long đong ngược xuôi để nuôi con khôn lớn. Bây giờ mẹ đã già, tóc đã pha sương, lưng đã còng, mắt đã mờ. Nói làm sao hết được tình thương mến, biết ơn của người con đối với mẹ qua mấy câu thơ giàu cảm xúc và hình ảnh:
Bóng hàng cau ngả xiêu xiêu
Bóng mẹ tôi đổ xuống chiều hoàng hôn
(Tắm cho mẹ )
Đó là những cô thôn nữ trung hậu đảm đang. Trước đây cô thôn nữ ấy đã từng giật mình khi nghe thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, đã từng mơ thấy anh về trong những đêm nhớ chồng. Nay những cô thôn nữ ấy lại miệt mài trên cánh đồng để làm ra mùa vàng bội thu. Giọt mồ hôi của cô lăn xuống hôm nay để ngày mai biển lúa “xanh ngời ngợi xanh”. Cô cũng là cô Tấm trong những đêm diễn chèo.
Tập thơ còn nói đến những niềm vui bình dị và hạnh phúc đời thường trong cuộc sống. Một gia đình có ông bà con cháu sống quây quần hòa thuận, lúc nào cũng vang lên tiếng ru con của người mẹ, tiếng dạ thưa của con cháu, tiếng cười đùa của con trẻ… Đó là niềm hạnh phúc bất tận mà mỗi gia đình cần hướng tới. Tình vợ chồng đằm thắm keo sơn kể cả khi đến tuổi về già. Xa nhau là nhớ, là lo lắng cho nhau, là ao ước được sống bên nhau: “Khi nào cháu lớn lên ba – Cháu đi mẫu giáo, bà là của ông”.
Một số bài trong tập thơ nói đến tình yêu nam nữ. Ở tuổi “thất thập” tình yêu của nhà thơ vẫn mặn mà, đằm thắm. Đó là thứ tình yêu không vướng vào nhục dục mà bay bổng, thanh khiết, nâng đỡ con người ta lên đến mức thánh thiện “Em về phố Thắng nắng reo – Em đi tím cả tình yêu mặn nồng” (Gặp em trên phố Thắng).
Có một mảng thơ hết sức đặc sắc trong tập thơ mà ít thấy trong các tập thơ của các tác giả khác. Đó là những bài thơ tác giả vẽ lên chân dung từng con người. Có đến hơn ba mươi bài. Mỗi bài nói về một người có tên tuổi, có địa chỉ hẳn hoi. Hầu hết là bạn bè, đồng đội, anh em. Có bài viết theo đơn đặt hàng mỗi khi tết đến xuân về, có bài tác giả tự cảm hứng mà viết tặng. Mỗi người một hoàn cảnh, một số phận khác nhau. Dưới ngòi bút của nhà thơ, họ hiện lên hết sức sống động. Chỉ vài nét, tác giả đã tóm lược được những nét chính về sự nghiệp thân thế của họ, mà tóm lược bằng hình ảnh. Bài thơ tặng ông Trà là một ví dụ. Ông là một nông dân giỏi bắt cá, giỏi nghề thợ xây. Tác giả diễn đạt hai nghề đó của ông bằng hình ảnh không hề khô cứng: “Công trường vôi vữa đó đây – Bàn tay vàng đã dựng xây lâu đài - Ở đâu ao rộng sông dài – Buông câu thả lưới quăng chài cá tôm”. Nhận vật lão thành cách mạng ở tuổi 90, có sáu mưới tám tuổi Đảng như cụ Lê thì tác giả ca ngợi: “Trong tim chỉ một con đường – Con đường cách mạng, con đường vinh quang”. Người cựu chiến binh như ông Vẽ, giỏi làm ăn kinh tế, sống chan hòa với mọi người thì tác giả diễn đạt bằng những hình ảnh dân dã: “Cơm quê quyện với trám bùi - Ấm trà đón khách tới lui thăm nhà”. Vì thế ai được tác giả tặng thơ cũng thích.
Ngôn ngữ trong tập thơ là thứ ngôn ngữ bình dân, dung dị. Thứ ngôn ngữ ấy lại được một tâm hồn thơ giàu cảm xúc, nên bài thơ nào của tác giả cũng mượt mà, đằm thắm, kể cả những bài thơ viết theo thể Đường luật. Cần nói thêm là nhưng hình ảnh trong tập thơ là những hình ảnh lấy trong cuộc sống đời thường, rất gần gũi với chúng ta, như: bánh đa, bánh đúc, riêu cua, nước dọc… gợi cho ta nghĩ đến những câu ca dao, tục ngữ. Cách tạo hình ảnh của tác giả nhiều khi bất ngờ những đầy thú vị: “Một khoảng trời mỏi mắt trông – Hai đầu nỗi nhớ bão giông ngập lòng”, “Xắn tay mò lại lời nguyền – Giờ em theo lái con thuyền về đâu”, “Với tay bốc ánh trăng rằm – Gọi heo may, gió vào thăm một người”…
Có thể thấy, Hoa nấm tuy là tập thơ đầu tay của Nguyễn Huy Bách, nhưng với vốn sống phong phú và năng khiếu vốn có, nhất là tinh thần học hỏi, đã cuốn hút người đọc một cách mạnh mẽ. Mỗi bài thơ giống như một bông hoa đồng nội, có hương sắc riêng, cứ thấm vào ta cái nồng nàn, thơm ngát của tình đồng chí, đồng đội, cái vẻ mộc mạc, chân chất của tình quê hương làng xóm, tình bạn bè, người thân, hướng ta đến cái đẹp của CHÂN – THIỆN – MỸ.
Hứa Vĩnh Hào
Ý kiến ()