I- Lực lượng vũ trang thành phố Bắc Ninh tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1929 - 1954).
1- Quá trình thành lập Thị đội Bắc Ninh.
Đầu tháng 7-1929, đồng chí Ngô Gia Tự, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng đã chọn các đồng chí Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân, Nguyễn Hữu Căn để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của thị xã Bắc Ninh. Đây là sự kiện quan trọng, chứng tỏ phong trào cách mạng của thị xã có bước phát triển mới và chuyển biến về chất.
Cuối năm 1936, đầu năm 1937, các đồng chí Hoàng Quốc Việt thoát khỏi nhà tù thực dân trở về, bắt liên lạc và xây dựng cơ sở cách mạng ở thị xã Bắc Ninh. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, nhiều cán bộ được tăng cường về tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng ở thị xã.
Chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, các tổ chức Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc và các đội tự vệ phát triển ở hầu khắp các xóm, khu phố Thị Cầu, Đáp Cầu, Tiền An, Vệ An, Ninh Xá. Ngày 20-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Bắc Ninh giành thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng, lực lượng vũ trang thị xã được chú trọng xây dựng, chuẩn bị kháng chiến. Tuy nhiên trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn. Mỗi trung đội tự vệ chỉ có 2 đến 3 khẩu súng, còn lại là giáo, mác, dao, kiếm. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân và LLVT thị xã tích cực “tiêu thổ kháng chiến” nhằm ngăn cản bước tiến của quân thù. Tất cả các xã, khu phố đều tập trung xây dựng các tiểu đội, trung đội tự vệ, tổ chức huấn luyện, tuần tra, phòng gian, bảo mật, xây dựng được 4 làng chiến đấu… Nhân dân tích cực quyên góp tiền của ủng hộ Chính phủ kháng chiến và mua sắm vũ khí trang bị cho dân quân, du kích và bộ đội đánh giặc.
Ngày 28-4-1947, Thị đội và Trung đội du kích tập trung thị xã Bắc Ninh được thành lập. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước ngoặt đưa phong trào đấu tranh vũ trang của thị xã lên một bước phát triển mới, có lực lượng vũ trang tập trung hỗ trợ chiến đấu để từng bước giành thắng lợi trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2. Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, chiến đấu bảo vệ quê hương. Tháng 9-1947, đơn vị hành chính thị xã Bắc Ninh giải thể, sát nhập vào huyện Yên Phong. Đến ngày 12-11-1949, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh quyết định thành lập Ban Cán sự Thành nhằm gây dựng lại cơ sở và lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch ở thị xã. Ngày 14-11-1949, Trung đội bộ đội địa phương (Trung đội 5) được thành lập gồm 33 chiến sĩ có nhiệm vụ bảo vệ Ban Cán sự, các cơ quan Thành, dìu dắt, giúp đỡ dân quân, du kích và đánh địch trong thị xã.
Từ đầu năm 1950, các mặt hoạt động đều được đẩy mạnh. Bộ đội và du kích phục kích đánh địch ở Cổng Hậu, Đặng Xá, Đại Tráng; đánh mìn ở Phúc Đức, Thị Cầu; quấy rối vị trí Rút-sơ-lê; cắt dây điện thoại trong và ngoài thành; diệt phản động ở Thị Cầu, chống lập bảo an, phá lô cốt Thị Cầu, Đáp Cầu; tổ chức tuyên truyền xung phong ở các làng cả nội, ngoại thành và đưa một số đảng viên về gây dựng, phát triển cơ sở bí mật ở Vệ An, Yên Mẫn, Thị Chung, Niềm Xá, Tiền An, Đáp Cầu, Thị Cầu, Thanh Sơn. Quần chúng ở Thị Chung, Vệ An, Thượng Đồng, Đặng Xá, Kim Đôi, Đạo Chân, đấu tranh chống địch lập tề rất quyết liệt. Ta tổ chức phá tan các Ban tề phản động ở Khả Lễ, Phúc Sơn, Châm Khê và các ổ phòng nhì ở Vệ An, Yên Mẫn; bắt bọn chỉ điểm ở Thị Cầu; tổ chức đốt chợ Thị Cầu, phá chợ Dương Ổ, phá hiệu buôn Thăng Long ở Thị Cầu; vận động tiểu thương, tiểu chủ trong toàn Thị xã bãi thị; lãnh đạo nhân dân các xã ngoại thành cấy chiêm nhanh gọn, cất giấu lương thực, không để địch cướp phá.
Ngày 1-4-1951, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 75/TTg tái lập thị xã Bắc Ninh. Ngay sau đó, Ủy ban kháng chiến hành chính Thị xã ra lời hiệu triệu gửi quân, dân nội và ngoại thành nhân ngày tái lập Thị xã: “Ủy ban kháng chiến hành chính Thị xã là tượng trưng của khối đại đoàn kết và ý chí kiên quyết đánh giặc của toàn thể đồng bào Thị xã. Truyền thống giết giặc của quân và dân nội, ngoại thành đã sẵn có. Chúng ta hãy đoàn kết chặt chẽ đấu tranh chống giặc bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân ngày thêm vững mạnh, bồi cho địch những đòn mạnh mẽ hơn nữa và tích cực chuẩn bị đầy đủ để chuyển mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới”.
Từ tháng 3-1954, quân ta tiến công vào Điện Biên Phủ và các mặt trận khác, địch đóng trong Thị xã buộc phải rút bớt một số quân đi, bọn gián điệp, đảng phái phản động rút vào hoạt động bí mật. Quân địch ra sức quây càn ở các thôn ngoại thành và các khu phố nhằm phá vỡ cơ sở của ta và bắt thanh niên đi lính.
Thực hiện Chỉ thị của Liên khu ủy và Nghị quyết của Tỉnh ủy, để phối hợp hoạt động với các chiến trường trong toàn quốc, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ; ngay từ đầu năm, bộ đội địa phương và dân quân du kích hoạt động đều và liên tục, lực lượng vũ trang chiến đấu đột nhập vào các phố để đánh địch đi tuần tiễu, 16 lần quấy rối các vị trí, 17 lần đánh mìn làm đổ 14 xe, phá hoại nhà thông tin của địch ở Đáp Cầu và Bắc Ninh, 10 lần võ trang tuyên truyền vào các khu phố và làng, 13 lần rải truyền đơn vào các vị trí địch (20.000 tờ) phối hợp với bộ đội chủ lực tỉnh tiêu diệt vị trí Hoà Đình thu 40 súng trường, 3 tiểu liên, đốt cháy một kho đạn... Những thắng lợi này đã góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Từ cuối tháng 6-1954, bộ đội địa phương và dân quân du kích hoạt động mạnh và liên tục, thường xuyên quấy rối các vị trí địch, chặn đánh bọn địch đi tuần, cắt dây điện thoại, đánh phá cầu phao Đáp Cầu, tiêu diệt hoàn toàn đại đội địa phương quân ở ga Bắc Ninh, phối hợp với đánh tiêu diệt quân Võ Giàng, tiêu diệt một phần sinh lực địch ở thành Bắc Ninh… làm cho địch rất lúng túng và luôn bị động. 10 giờ sáng ngày 8-8-1954, quân Pháp rút khỏi thị xã Bắc Ninh. 11 giờ 30 phút, bộ đội ta tiến vào thị xã Bắc Ninh.
Là cửa ngõ nối liền Hà Nội với các tỉnh Đông Bắc và Việt Bắc, có nhiều đường giao thông thuỷ, bộ; lại là tỉnh lị, nơi tập trung bộ máy chỉ huy của nguỵ quân, nguỵ quyền địch, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra trên địa bàn Thị xã hết sức gay go, quyết liệt và kéo dài từ khi địch chiếm đóng (7-1949) đến ngày kết thúc chiến tranh (8-8-1954). Nhưng trong điều kiện cực kỳ khó khăn ấy, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân và LLVT thị xã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong suốt những năm dài kháng chiến, vừa đánh giặc, vừa xây dựng và củng cố lực lượng, củng cố cơ sở, xây dựng phong trào từ nhỏ đến lớn; từ chỗ ta bị mất đất, bị địch o ép, kiềm chế,... đã từng bước tạo lập được chỗ đứng chân, xây dựng được cơ sở, tổ chức lực lượng đánh địch cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, làm thất bại từng bước âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt” của địch, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
II- LLVT thành phố Bắc Ninh với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955-1975).
1. Củng cố hậu phương sau chiến tranh.
Ngày 8-8-1954, những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng rút khỏi thị xã Bắc Ninh. LLVT thị xã khẩn trương được củng cố, sắp xếp, tham gia công tác tiếp quản, ổn định đời sống nhân dân, làm nòng cốt trong đấu tranh chống lại bọn phản cách mạng nằm vùng lôi kéo dân di cư vào Nam, tích cực tham gia lao động, sản xuất, cải cách ruộng đất, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
2. Đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần thống nhất đất nước.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, trên địa bàn thị xã Bắc Ninh có tới 74 cơ quan của tỉnh, 1 công trường, 5 trường học, có 2 xã sản xuất nông nghiệp là Vũ Ninh và Kinh Bắc. Thị xã là một trong những nơi bị đế quốc Mỹ chọn làm mục tiêu trọng điểm đánh phá với những mục tiêu quan trọng như cầu Đáp Cầu, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, ga Thị Cầu và Bắc Ninh, Thành Bắc Ninh, Trường Công binh, Viện Quân y 110, các cảng đường sông trên tuyến Đáp Cầu, cụm kho dự trữ quốc gia và trận địa pháo cao xạ... Trong năm 1967, trên địa bàn thị xã, địch sử dụng 318 lượt máy bay bắn phá, ném 294 quả bom, gần 1 vạn bom bi, làm chết 31 người, bị thương 84 người, phá sập 135 ngôi nhà.
Về công tác xây dựng lực lượng: Năm 1962, tổng số DQTV được xây dựng là 1.874 đồng chí. Năm 1965, 100% cán bộ xã đội, đại đội, trung đội, tiểu đội được bồi dưỡng ở tỉnh. Có 2 xã và 29 đơn vị tự vệ đã triển khai học phần kỹ thuật bắn máy bay bay thấp. Các đơn vị đã xây dựng phương án tác chiến; đào được 12.927m giao thông hào và nối liền giao thông hào từ núi Chu sang núi Pháo đài. Thị đội đã chỉ đạo các xã đội, khu đội xây dựng các trận địa bắn máy bay bay thấp, xây dựng được 40 trận địa bắn máy bay với quân số là 885 người, các trận địa được trang bị súng máy, súng trường, súng máy cao xạ 12 ly 7 và 14 ly 5. Thị xã thành lập Đội cảm tử với 162 người có trách nhiệm đảm bảo giao thông thông suốt, tháo gỡ, phá bom nổ chậm; thành lập tổ cảnh giới, giữ trật tự giao thông gồm 124 người.
Dưới mưa bom, bão đạn của giặc Mỹ, quân và dân thị xã Bắc Ninh không hề nao núng, không chịu khuất phục, hiên ngang đánh trả quân thù. Trong tám ngày đêm liền, 14 cô gái DQTV Thị Cầu đã đảm nhiệm 2 khẩu pháo 37mm trên núi Pháo đài, cùng phối hợp với các trận địa phòng không nổ súng đánh đuổi máy bay Mỹ. Khi trận địa pháo 100mm của bộ đội bị địch đánh phá gây thương vong lớn, các chị đã nhanh chóng vận chuyển, cứu chữa 21 thương binh, sau đó thay thế các pháo thủ chiến đấu suốt 2 ngày đêm, tới khi đơn vị có các chiến sĩ lên thay các chị mới rút về trận địa của mình rồi cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu.
Điển hình là chiến thắng ngày 17-10-1967, hai tốp với 20 máy bay Mỹ đánh phá cầu Đáp Cầu. Các nòng súng ở trận địa của ta ở Đáp Cầu, Cô Mễ nhất loạt rung lên, nhả đạn vào quân thù. Chỉ trong vòng hai phút, 5 máy bay Mỹ bị bắn rơi. Trận đánh trả máy bay địch trên bầu trời Đáp Cầu của tiểu đoàn 18 phối hợp với DQTV thị xã là một chiến thắng điển hình, một kỷ lục về số máy bay địch bị tiêu diệt trong thời gian ngắn nhất. Từ ngày 17-10 cho đến hết năm 1967, máy bay địch không bén mảng đến khu vực này.
Mảnh đất thị xã Bắc Ninh vẫn còn nồng khét khói bom đạn địch, nhân dân thị xã Bắc Ninh ngày đêm chăm sóc, cứu chữa thương binh, nuốt dòng nước mắt trước những người thân yêu của mình bị chết dưới bom đạn của quân xâm lược. Lực lượng DQTV cùng các đơn vị bộ đội và nhân dân chung tay, góp sức xây dựng lại trận địa, củng cố hầm hào, công sự, ngụy trang đường xá, bảo vệ mạch máu giao thông, hàng hóa.
Bên cạnh công tác xây dựng lực lượng, phòng không sơ tán, chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ quê hương, thị xã Bắc Ninh luôn hoàn thành tốt công tác chi viện cho chiến trường với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Hàng ngàn lá đơn tình nguyện của đoàn viên, thanh niên xin sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Tổ quốc yêu cầu. Nhiều lá đơn viết bằng máu thể hiện rõ quyết tâm chống Mỹ cứu nước của tuổi trẻ.
Phong trào mở hội “Toàn dân cử người đi đánh Mỹ” diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương. Bà Kiều Thị Hồng ở phố Tiền An, thị xã Bắc Ninh có 4 con trai, 3 con đã vào bộ đội đánh Mỹ, bà sẵn sàng động viên con thứ 4 nhập ngũ. Gia đình ông Nguyễn Văn Thanh ở thôn Thanh Phương, xã Vũ Ninh (có 2 con đang tại ngũ) và gia đình ông Ngô Văn Nhuận ở nhà số 136, khu 1 Thị Cầu (có 3 con trai tại ngũ) đều làm đơn xin cho người con út tiếp tục lên đường chiến đấu. Bà Nguyễn Thị Mùi ở thôn Phúc Sơn, xã Vũ Ninh tiễn người con thứ tư lên đường nhập ngũ... Từ năm 1965-1975, thị xã đã tiễn đưa 1.971 người tham gia quân đội thường trực, 214 anh, chị em tham gia thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước.
Với những đóng góp tích cực, Đảng bộ và nhân dân thị xã Bắc Ninh đã góp phần cùng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thị xã có 473 người hy sinh được công nhận là liệt sĩ; 353 thương binh, bệnh binh. Nhân dân và LLVT nhân dân thị xã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Mỹ.
III. Hàn gắn vết thương chiến tranh, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng LLVT địa phương và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1975 đến nay).
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, LLVT thị xã được củng cố, xây dựng, sẵn sàng chiến đấu cao, đồng thời tích cực hàn gắn vết thương chiến tranh, tham gia phát triển kinh tế-xã hội.
Từ năm 1977 đến năm 1979, chiến tranh nổ ra ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Thị xã xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch tác chiến phòng thủ trên địa bàn, tích cực tiếp sức cho các cuộc chiến ở biên giới, góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước chiến đấu giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc.
Trong những năm 1980-1986, LLVT địa phương được xây dựng theo hướng tinh, gọn, với lực lượng dự bị hùng hậu được tổ chức và quản lý tốt, củng cố lại lực lượng dân quân, tự vệ cho phù hợp. Tích cực góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh, trật tự; kết hợp chặt chẽ việc củng cố, xây dựng LLVT với phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, tạo thế và lực cho Đảng bộ và nhân dân thị xã vững bước trên đường đổi mới.
Trong hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt sau 20 năm tỉnh Bắc Ninh tái lập, phát huy truyền thống quê hương cách mạng, anh hùng, LLVT thị xã Bắc Ninh, nay là thành phố Bắc Ninh đạt nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ nối tiếp phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của đội quân sẵn sàng chiến đấu, đội quân công tác, làm tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Từ đó, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.
Ý kiến ()