Đã lâu tôi mới có dịp trở lại Bắc Ninh. Nhân được Báo tỉnh nhà mời về dự cuộc gặp mặt cộng tác viên chuẩn bị cho số báo Tết, báo xuân và gia đình cố nhà văn Kim Lân tổ chức lễ mừng nhà văn được đặt cho một đường phố mới trên thành phố. Tuy chỉ được thấy lại Bắc Ninh trong một khoảng thời gian ngắn, được ngồi trên xe đi vòng vòng qua một vài con phố, quảng trường, vườn hoa... ấn tượng về sự thay đổi của Bắc Ninh từ thị xã lên thành phố đối với tôi vẫn quả thực là to lớn, sâu sắc...
Dạo trên xe mừng vui khấp khởi, chỗ nào cũng thấy mới mẻ, tươi trẻ với những kiến trúc tân tiến, tôi mừng rỡ nhận ra tòa nhà thờ lớn góc đường lối rẽ qua chợ đi về phía Phả Lại, con đường có thời cơ quan chúng tôi sơ tán tránh bom đạn Mỹ về Đông Du, nên một hai tuần chúng tôi lại có dịp đạp xe từ Hà Nội lên hoặc từ nơi sơ tán về, đi qua. Qua cửa chợ một quãng ngay bên đường phía tay phải có nhà anh Phan, anh ruột cố nhà thơ Lữ Huy Nguyên, quê ở Chi Hồ, có thời cùng công tác ở Nhà xuất bản Văn học, nên chúng tôi đôi khi ghé thăm. Nhà thơ Lữ Huy Nguyên về sau sang làm Giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa, nhưng rồi lại trở về giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học. Anh là một con người chỉn chu, chăm công việc, ham sáng tác văn thơ, mà cũng ham học, ham tích lũy tư liệu. Ngoài sáng tác văn thơ anh có được những công trình nghiên cứu biên soạn sáng giá, như sách về Hồ Xuân Hương, về Trạng Quỳnh, anh chủ biên nhiều tuyển tập văn thơ của nhiều tác giả có tên tuổi. Có lẽ, tôi đã một phần học được ở anh, cũng tích lũy được những tư liệu về chuyên môn của mình, đến cái tuổi U80 phải thu xếp hành trang sẵn sàng bàn giao lại tích lũy của mình, tôi đã có thể năm bẩy lần đem trưng bày cho mọi người thấy kỷ vật có ích về các chuyên đề khác nhau…
Cao Thụy-Người ngồi bên phải.
Cứ đi tiếp theo đường sang Phả Lại đến quãng sắp ra khỏi thị xã rẽ phía bên trái là cơ sở của trường Hàn Thuyên. Tôi là một trong những học trò cũ của Hàn Thuyên. Chỉ vẻn vẹn được học có một năm đệ nhất, nay là lớp 6 cấp hai phổ thông, mà lại đã lâu lắm rồi, khóa 49-50 cách đây đã hơn nửa thế kỷ, khi trường tản cư trong kháng chiến chống Pháp sang huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang. Sau này chỉ có một lần, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập trường, tôi mới có dịp được đến cơ sở của trường ở Bắc Ninh này.
Năm tôi học Hàn Thuyên, trường vừa chuyển từ nơi tản cư cũ ở Bắc Lý, lên Hoàng Vân, vẫn trong huyện Hiệp Hòa. Hàng hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn nhớ mái trường là đình Ai Cập, chùa Hoàng Vân, nhớ các thầy, các cô: Thầy Cư-hiệu trưởng, cô Kỷ dạy tiếng Pháp, thầy Côn, thầy Thương, cô Châu,… Cô Nghiêm Chưởng Châu bấy giờ trực tiếp dạy toán lớp Đệ nhất chúng tôi. Sau này tôi được gặp lại khi cô được điều sang dạy ở trường phổ thông khu học xá Trung ương sơ tán trên đất bạn Trung Quốc. Hòa bình lập lại, về Hà Nội cô Châu làm hiệu trưởng trường Trưng Vương, rồi lên phụ trách Sở Giáo dục Hà Nội. Khi mới tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi về làm anh giáo một trường Trung cấp tận Mễ Trì, sát Hà Đông. Gặp cô Châu, cô vẫn nhớ mặt, ân cần hỏi han công việc, cũng như chuyện gia đình, lại nhận là đồng hương, vì cô quê ở Chờ, Yên Phong cùng tỉnh Bắc Ninh. Rồi tôi còn được gặp cả thầy Côn. Thầy giỏi tiếng Pháp, say mê văn thơ. Bấy giờ tôi đang công tác ở Nhà xuất bản Văn học, mấy lần thầy Côn lui tới NXB trao đổi về dich vu seo thuật thơ ca. Năm 1998, vừa đủ tuổi 60 tôi nghỉ chế độ nên không giúp gì được thầy trong việc hoàn thành công việc dịch thơ Pháp của thầy. Bản dịch của thầy mãi đến năm 2001 mới được NXB Thế giới ấn hành: Tuyển thơ dịch in song ngữ Pháp Việt giới thiệu 50 bài thơ của 22 nhà thơ Pháp tiêu biểu, từ thế kỷ XVI đến XIX, với tựa đề Muôn điệu hồn tôi. Gặp lại nhau ở CLB thơ dịch của Hội Nhà văn Hà Nội, phần lớn là các bậc lão thành, các cựu nhà giáo tên tuổi như giáo sư Nguyễn Lân, nhà thơ-dịch giả Khương Hữu Dụng, dịch giả Hoàng Minh Châu… tại Nhà Văn hóa khu tập thể Kim Liên, thầy Nguyễn Ngọc Côn hẹn sẽ cho tôi một tập sách mới ra. Nhưng đáng tiếc là chỉ ít lâu sau đó thầy đột ngột qua đời. Tôi được anh Nguyễn Mạnh Dũng, con trai thầy cho được đọc sách của thầy.

Hoàng Đăng Vinh-người bắt tướng Đờ Cát. Ảnh chụp của Roman Cacmen.
Trong số bạn đồng môn Hàn Thuyên ngày ấy tôi còn nhớ như in kỷ niệm về không ít người. Anh Đặng Bộ, chính quê ở ấp Hoàng Vân nơi chúng tôi cùng học trong một căn nhà khách thập phương của chùa làng. Anh nhiều tuổi hơn chúng tôi, sớm tòng quân, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và chúng tôi được tin anh hy sinh trong trận đánh đồi A1. Anh Thành Đại ngồi cùng bàn với tôi cũng sớm xung phong đi bộ đội. Tôi nhớ, người anh mảnh khảnh, cao lêu đêu, tóc loăn xoăn tự nhiên. Hôm chia tay lớp anh xung phong hát bài Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Trong bài hát có câu “Đoàn quân Việt Nam đi”, anh Đại băn khoăn: Khi tôi hát đến câu đó mọi người có phải đứng lên nghiêm hay không?... Sau này gặp lại anh tại nhà riêng vốn là nhà của cha mẹ anh từ xưa ở khu Vân Hồ gần công viên Thống Nhất, nay là công viên Lê nin, tôi mới biết anh là người gốc Hà Nội, con một gia đình tư sản lớn trước đây. Vì lẽ đó mà anh được bố trí vào tình báo ở nội thành trong thời gian kháng chiến chống Pháp, sau hòa bình anh được cử đi học trường Binh chủng tăng thiết giáp bên nước bạn. Chính anh là người chỉ huy đơn vị xe tăng đầu tiên tham gia trận chiến Khe Sanh thắng Mỹ ngụy. Anh được giữ quân hàm Đại tá khi ra quân. Nhưng anh và gia đình vẫn ở một căn buồng trong khuôn viên ngôi nhà cũ của cha mẹ anh, nay trở thành nhà tập thể, mà không hưởng chế độ nhà đất theo tiêu chuẩn cấp tá của mình…
Tôi nhớ anh Đỗ Xuân Hà cũng là đồng môn Hàn Thuyên năm ấy và về sau còn có dịp cũng cùng theo học một số trường lớp khác nhau. Anh là con cháu họ Đỗ có nhiều tên tuổi trí thức yêu nước lừng danh, như luật sư Đỗ Xuân Sủng, bác sĩ thiếu tướng quân y Quân đội nhân dân Việt Nam Đỗ Xuân Hợp. Và chính anh là người thông minh học giỏi từ bé, ham viết văn rất sớm. Tôi nhớ, ngay từ khi cùng ngồi ghế nhà trường ngay vào những năm đầu tiên Khoa Ngữ văn trường Đại học, anh đã cho tôi đọc một số truyện ngắn anh sáng tác, mà nội dung một truyện làm tôi ghi nhớ mãi về sau. Sau này anh học lên cao và đỗ bằng Tiến sĩ khoa học khoa Ngữ văn nước ngoài đầu tiên của Việt Nam, trở thành Giáo sư trường Đại học.
Còn có người bạn nữa cũng học Hàn Thuyên khi ấy, nhưng lại học trên chúng tôi một lớp: Anh Cao Thụy, quê ở Nhồi, sát thị xã Bắc Ninh. Anh tòng quân trong đợt bộ đội về động viên lấy quân ngay trước khi năm học kết thúc. Nhưng rồi chúng tôi lại gặp nhau ở trường Thiếu sinh quân Việt Nam, rồi tiếp tục cùng học lên, cho đến khi sau khóa đào tạo Nga ngữ, anh trở về làm phiên dịch cho ngành điện ảnh Việt Nam. Sau đó ít năm anh được đi đào tạo đúng nghề điện ảnh và trở về làm đạo diễn phim hoạt hình. Trong kháng chiến chống Mỹ anh có tác phẩm phim Con khỉ lạc loài được giải thưởng liên hoan phim toàn quốc và cả giải quốc tế… Anh mất sớm, tôi và vài đồng đội cũ của anh được tiễn đưa di hài anh chở từ TP. Hồ Chí Minh về tận quê làng Nhồi an táng. Ngoài mấy tấm ảnh tôi chụp bữa đưa tang, mới đây tình cờ tôi tìm thấy một tấm ảnh đăng trên báo ảnh Liên Xô cũ có hình anh Cao Thụy ngồi trong đám sinh viên Việt Nam quanh đạo diễn Liên Xô nổi tiếng Roman Cacmen, người thầy của anh. Nói đến Roman Cacmen, tôi lại nhớ đến bộ phim ông quay về Việt Nam ở cuối chiến dịch Điện Biên Phủ và những ngày giải phóng thủ đô Hà Nội. Cả cuốn hồi ký ông viết về chuyến đi năm ấy: Ánh sáng trong rừng sâu, trong đó có cả một chương nói về anh tiểu đội trưởng Hoàng Đăng Vinh bé nhỏ dẫn đầu tổ xung kích vào tận hầm chỉ huy bắt sống tướng Đờ cát, chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ. Những năm qua, nhiều lần tôi được đọc trên báo về Đại tá Hoàng Đăng Vinh, cựu chiến binh về sống tại Bắc Ninh. Thật thú vị chừng nào nếu có dịp về thăm Bắc Ninh dài dài lại được đến thăm người anh hùng Điện Biên năm xưa!
Tôi sung sướng và tự hào mỗi lần được trở lại Bắc Ninh tỉnh nhà. Bắc Ninh từ nay có tên của một người làng Giàu-Phù Lưu. Bắc Ninh từ lâu gắn với tên tuổi biết bao con người mà trên đường đời đi qua tôi đã may mắn được quen biết, dù là bạn bè thân thiết, dù chỉ một lần nghe tên. “Quê hương là chùm khế ngọt” như lời bài hát quen thuộc với mọi người Việt Nam. “Quê hương là cái cây trồng trước nhà, là cái phố nhỏ đổ ra bờ sông…”, như lời của nhà văn Nga Xô viết có nhiều duyên nợ với Việt Nam-Ilia Erenbua đã viết và nhà văn Thép Mới dịch ra tiếng Việt cho nhiều bạn đọc lứa tuổi chúng tôi thuộc lòng. Ở tuổi 80, ngẫm nghĩ mà nghiệm ra, tôi muốn được thêm vào mấy chữ: “Quê hương gắn với tên tuổi những con người ta từng quen biết, mỗi lần nhớ đến cho ta ấm lòng, cho ta tự hào, dường như cho ta thêm nghị lực”…
Ý kiến ()