I. Lực lượng vũ trang Yên Phong ra đời tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1930 - 1954).
1. Quá trình thành lập Huyện đội Yên Phong.
Trong những năm 1943, 1944, các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Trần Đức Thịnh, Từ Vân, Cao Ái, Vũ Thị Khôi… đã về Yên Phong xây dựng cơ sở cách mạng. Đầu năm 1945, các tổ chức Việt Minh bí mật được thành lập ở Yên Phong và lãnh đạo nhân dân công khai đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống Nhật nhổ lúa trồng đay…
Tháng 4-1945, nhiều xã trong huyện được chọn làm an toàn khu 2 và nằm trong an toàn khu của Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ, do đồng chí Văn Tiến Dũng phụ trách. Đồng chí Nguyễn Thị Minh được cử về phụ trách cơ sở và lãnh đạo phong trào cách mạng ở đây. Cũng thời gian này, ban lãnh đạo phong trào Việt Minh mở các lớp huấn luyện ở Vọng Nguyệt (Tam Giang), Ngô Nội (Trung Nghĩa) và ở Đông Phong để đào tạo cán bộ Việt Minh.
Từ tháng 5 đến tháng 8-1945, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong huyện nổ ra ở nhiều nơi. Ngày 18-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, đông đảo nhân dân và tự vệ trong huyện tiến về huyện lỵ Đông Yên tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và thành lập chính quyền cách mạng.
Tháng 10-1945, chi bộ Đảng đầu tiên của Yên Phong được thành lập tại Ấp Đồn (Yên Trung).
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân và LLVT Yên Phong tích cực “tiêu thổ kháng chiến” nhằm ngăn cản bước tiến của quân thù. Lực lượng dân quân, du kích nhanh chóng được củng cố, xây dựng và ra sức luyện tập các phương án đánh địch, bảo vệ làng. Các làng chiến đấu được triển khai xây dựng khắp xã trong huyện. Căn cứ du kích được hình thành ở Tam Giang, Yên Phụ, Yên Trung, Hàm Sơn, Thụy Hòa, Hòa Long, Văn Môn… Nhân dân trong huyện tích cực quyên góp tiền của ủng hộ Chính phủ kháng chiến và sắm sửa vũ khí trang bị cho dân quân, du kích và bộ đội đánh giặc.
Ngày 15-4-1947, Huyện đội Yên Phong được thành lập. Đồng chí Ngô Xuân Nhận làm Huyện đội trưởng, đồng chí Tân Phong làm Chính trị viên, các đồng chí Nguyễn Văn Kỷ và Nguyễn Văn Thụy làm Huyện đội phó. Trung đội du kích tập trung của huyện cũng được thành lập, gồm 22 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Kỷ làm Trung đội trưởng, trang bị ban đầu có 10 quả lựu đạn, mỗi người có 1 cây mác và 1 khẩu súng gỗ để luyện tập.
Sự kiện thành lập Huyện đội Yên Phong có ý nghĩa quan trọng. Từ đây, phong trào đấu tranh vũ trang của huyện phát triển lên một bước mới, có lực lượng vũ trang tập trung hỗ trợ chiến đấu để từng bước giành thắng lợi trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2. Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, chiến đấu bảo vệ quê hương.
Trước tình hình chiến tranh ngày càng lan rộng, Huyện ủy đặc biệt chú trọng xây dựng và phát triển LLVT. Huyện tiếp tục thành lập 1 Trung đội du kích tập trung, chỉ đạo các xã đẩy mạnh xây dựng dân quân, du kích. Đến cuối tháng 4-1947, toàn huyện có 62 du kích thoát ly, trang bị 21 súng trường, 100 lựu đạn. Du kích xã có 422 người. Năm 1948, huyện thành lập xưởng quân khí, đóng ở Tam Giang để sản xuất lựu đạn, dao găm, mã tấu, chông, mìn và sửa chữa vũ khí.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, nhân dân và các LLVT huyện kiên cường bám trụ, phối hợp với bộ đội chủ lực anh dũng, kiên cường đánh trả các cuộc càn quét của địch, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cán bộ.
Đi cùng năm tháng, nhiều chiến công vang dội của quân và dân Yên Phong mãi mãi được khắc ghi. Ngày 7-10-1947, Pháp mở cuộc tấn công lên Việt Bắc, dùng một lực lượng càn qua Văn Môn, Yên Phụ, Hòa Tiến. Lực lượng dân quân, du kích các làng, xã phối hợp đánh trả quyết liệt, tiêu diệt 52 tên địch, làm bị thương nhiều tên khác. Từ ngày 13 đến 19-7-1949, quân và dân Yên Phong phối hợp với các huyện và bộ đội chủ lực đánh trả cuộc càn quét lớn mang tên Ba-ti-dơ với 4.000 tên địch có xe tăng, máy bay, pháo binh, ca nô yểm trợ nhằm đánh chiếm Bắc phần tỉnh Bắc Ninh. Kết quả tiêu diệt 483 tên địch, làm bị thương gần 100 tên, riêng tại Yên Phong tiêu diệt 105 tên, 4 xe lội nước và 2 ca nô. Đó còn là chiến công hai lần tập kích đồn Yên Phụ năm 1950; tấn công bốt Chi Long năm 1951… Đặc biệt là chống trận càn Pô-lô Poóc-tô Tuyếc-cô dài nhất, tàn khốc nhất trong lịch sử kháng chiến chống Pháp trên địa bàn Bắc Ninh diễn ra từ ngày 14 đến 22-4-1952.
Trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ và anh dũng, quân và dân Yên Phong có 901 thanh niên nhập ngũ tham gia chiến đấu trên các chiến trường, trong đó có 474 đồng chí anh dũng hy sinh. Bộ đội địa phương và du kích huyện đánh 237 trận, chống hàng trăm trận càn quét, phá nhiều lô cốt, tháp canh của địch, phá 13 ban tề phản động, diệt 685 tên địch, làm bị thương 204 tên, bắt sống 61 tên, bức hàng 146 tên, phá hủy và thu nhiều phương tiện chiến tranh. Toàn huyện đào được trên 5.000 m3 đất giao thông hào, đào đắp hàng nghìn mét khối đất để ngăn cản, phá hoại giao thông của địch, huy động hàng nghìn dân công phục vụ các chiến dịch… Tất cả góp phần to lớn, quan trọng cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu”.
Với những thành tích to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và dân Yên Phong được tặng nhiều phần thưởng cao quý, đặc biệt là danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Đây là nguồn cổ vũ lớn lao, tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân Yên Phong vững bước trong chặng đường lịch sử tiếp theo.
II. Lực lượng vũ trang Yên Phong trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975).
1. LLVT Yên Phong củng cố hậu phương, tham gia phát triển kinh tế-xã hội và sẵn sàng chiến đấu.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, nhân dân và LLVT Yên Phong khẩn trương được củng cố, sắp xếp, tham gia tích cực và giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các nhiệm vụ lao động sản xuất, cải cách ruộng đất, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến.
2. Đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần thống nhất đất nước.
Từ đầu năm 1965, quân và dân Yên Phong bước sang giai đoạn vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
Yên Phong thực hiện tốt nghị quyết lãnh đạo chuyển hướng toàn diện tư tưởng, tổ chức và kinh tế quốc phòng sang thời chiến. Trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại, máy bay Mỹ nhiều lần đánh phá ác liệt vào địa bàn huyện gây bao thiệt hại về người và tài sản. Với tinh thần dũng cảm, không ngại hy sinh, vượt lên khốc liệt chiến tranh, quân và dân Yên Phong luôn sát cánh cùng bộ đội đánh trả quân thù. Huyện đội phát động phong trào thi đua quyết thắng, xây dựng Đơn vị chiến đấu giỏi với 6 nội dung: Đánh máy bay giỏi; Đánh biệt kích, tập kích giỏi; Đảm bảo giao thông; Bảo vệ trị an giỏi; Chống chiến tranh tâm lý của địch tốt; Phòng không nhân dân tốt.
Nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, chủ động tiến công, mỗi xã tổ chức 1 đại đội dân quân, tự vệ, 1 trung đội hoặc tiểu đội cơ động mạnh. Nhiều xã xây dựng được các trận địa trực chiến bắn máy bay địch. Mỗi lần máy bay địch xâm phạm, LLVT huyện đều kịp thời nổ súng, phối hợp nhịp nhàng với bộ đội chủ lực đánh giặc. Các tổ, đội cứu thương, cứu hỏa cùng nhân dân không quản ngại gian khổ, tích cực làm đường, xây dựng trận địa, vận chuyển đạn dược, lương thực, quân trang, cất giấu hàng hóa. Nhân dân trong toàn huyện, nhất là những nơi có trận địa phòng không đóng quân hăng hái đóng góp hàng nghìn ngày công làm đường, đào đắp công sự, trận địa cho xe, pháo, tên lửa… LLVT huyện phối hợp với bộ đội chủ lực trên địa bàn đánh 34 trận, lập công xuất sắc, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh thắng 2 cuộc chống chiến tranh bằng không quân, buộc Mỹ phải ngừng đánh phá phía Bắc vĩ tuyến 20, trở lại Pa-ri tiếp tục đàm phán.
Bên cạnh công tác xây dựng lực lượng, phòng không sơ tán, chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ quê hương, Yên Phong luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu công tác tuyển quân chi viện cho chiến trường. Phong trào tòng quân sôi nổi trong toàn huyện, có nhiều lá đơn tình nguyện nhập ngũ viết bằng máu. Năm 1965, huyện thành lập Đại đội Nguyệt Đức lên đường vào Nam chiến đấu giết giặc lập công. Với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, từ năm 1965 đến 1975, toàn huyện có 6.793 thanh niên lên đường nhập ngũ, trong đó có 286 nữ. Hơn 500 hộ gia đình (chiếm 33% tổng số hộ trong huyện) có chồng, con đi bộ đội, nhiều gia đình có từ 2 đến 4 người tại ngũ. Điển hình như mẹ Nguyễn Thị Kha ở Phú Mẫn có 5 con tại ngũ. Mẹ Nguyễn Thị Nhuận ở Yên Trung có 2 con là liệt sĩ chống Pháp, lại tiếp tục động viên người con thứ 3 tình nguyện đi bộ đội đánh Mỹ…
Những đóng góp của quân và dân Yên Phong tích cực góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
III. Hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng LLVT địa phương và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1975-1986).
1. LLVT với nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực chi viện, bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, LLVT của huyện lại tích cực tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội. Lực lượng được củng cố, xây dựng sẵn sàng chiến đấu cao.
Từ năm 1977 đến năm 1979, chiến tranh lại nổ ra ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Huyện xây dựng và triển khai phương án, kế hoạch tác chiến phòng thủ trên địa bàn, thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, nâng quân số dân quân, tự vệ toàn huyện lên 18% dân số. Để kịp thời tiếp sức cho cuộc chiến nóng bỏng trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, hàng nghìn thanh niên, cán bộ, đảng viên, bộ đội xuất ngũ hăng hái viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Chỉ trong 2 năm 1978, 1979 có 1.896 người con Yên Phong lên đường nhập ngũ; huy động 2.043 dân công hỏa tuyến. Nhân dân và LLVT huyện tổ chức nhiều đợt quyên góp vật chất gửi lên biên giới đồng thời nêu cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, làm tròn mọi nghĩa vụ với Nhà nước… Từ đó góp phần quan trọng cùng quân và dân các tỉnh chiến đấu giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc biên giới phía của Tổ quốc.
2. Xây dựng LLVT địa phương và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Trong những năm 1980-1986, LLVT địa phương được xây dựng theo hướng tinh, gọn, với lực lượng dự bị hùng hậu được tổ chức và quản lý tốt. Đồng thời củng cố lại lực lượng dân quân, tự vệ cho phù hợp.
LLVT và nhân dân Yên Phong tích cực phấn đấu, hăng hái thi đua; phối hợp làm trong sạch địa bàn, góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh trật tự; kết hợp chặt chẽ việc củng cố xây dựng LLVT việc phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, tạo thế và lực cho Đảng bộ và nhân dân trong huyện vững bước thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Sau 20 năm tỉnh Bắc Ninh, phát huy truyền thống quê hương cách mạng, anh hùng, LLVT Yên Phong đạt nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ nối tiếp phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của đội quân sẵn sàng chiến đấu, đội quân công tác, làm tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Từ đó, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.
Ý kiến ()